KỶ VẬT CỦA KÍP XE TĂNG BẤT TỬ

22:35 |

Đến Bảo tàng Lực lượng Tăng-Thiết giáp vào những ngày tháng 3 lịch sử, chúng tôi được Thiếu tá Mai Thị Ngọc, Giám đốc Bảo tàng giới thiệu những hiện vật quý gắn liền với lịch sử Binh chủng Tăng-Thiết giáp anh hùng.

Đặc biệt, Bảo tàng hiện lưu giữ rất nhiều hiện vật nguyên gốc của “kíp xe bất tử” 377. Thiếu tá Mai Thị Ngọc cho biết:
“377 là kíp xe đã lập công xuất sắc và anh dũng hy sinh trong trận Đắc Tô 2, Mặt trận Tây Nguyên vào ngày 24-4-1972.
Kíp chiến đấu trên xe hôm đó gồm 4 thành viên: Thiếu uý Nguyễn Nhân Triển, Trung đội trưởng Trung đội Tăng 3, trưởng xe; đồng chí Cao Trần Vịnh, lái xe; đồng chí Nguyễn Đắc Lượng, Pháo thủ số 1; đồng chí Phạm Văn Ái, Pháo thủ số 2”.
Lịch sử Binh chủng ghi lại: Đúng 4 giờ 30 phút sáng ngày 24-4-1972, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công căn cứ Tân Cảnh.
Từ hướng Đông Bắc và Tây Bắc, xe tăng ta nhanh chóng tiêu diệt các lô cốt, hoả điểm sát cửa mở và yểm trợ lẫn nhau vượt qua các lớp hàng rào thép gai, dùng hoả lực chi viện dẫn dắt bộ binh xung phong vào cứ điểm.
Ta lần lượt đánh chiếm các vị trí quan trọng như khu cố vấn Mỹ, khu binh sĩ Ngụy, Sở chỉ huy Trung đoàn 42 ngụy.
Sự xuất hiện của một lực lượng lớn bộ binh tinh nhuệ và xe tăng ta đã khiến địch thực sự hoảng loạn.
Bất chấp lệnh của quan thầy Mỹ, địch ở căn cứ Tân Cảnh đã vứt bỏ tất cả xe pháo rút chạy. Đến 8 giờ ngày 24-4-1972, quân địch ở căn cứ Tân Cảnh cơ bản bị tiêu diệt và bị bắt sống.
Trong lúc địch đang hoang mang vì mất Tân Cảnh, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định điều một trung đội xe tăng và một xe cao xạ 57 ly tự hành hiệp đồng với Trung đoàn Bộ binh 1 đánh thẳng vào căn cứ Đắc Tô 2.
Suốt nửa buổi sáng chiến đấu liên tục, không có thời gian chuẩn bị, cơm chưa kịp ăn, Trung đội tăng 3 gồm các xe 377, 354, 369 vừa củng cố đội hình cơ động, vừa nắm địch, bắt liên lạc hiệp đồng với bộ binh.
Xe 377 dẫn đầu đội hình vọt lên với tốc độ cao, khéo léo di chuyển vượt qua các đợt ngăn chặn, đánh phá ác liệt của máy bay địch, tiếp cận mục tiêu sớm nhất.
Quân địch trong căn cứ thấy quân ta chỉ có một xe tăng, không có bộ binh đi kèm liền cho 10 xe M41 chia làm 2 mũi bao vây xe 377.
Lúc này, xe 377 rơi vào tình thế vô cùng hiểm nghèo, một mình giữa vòng vây xe tăng địch. Trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển đã hội ý chớp nhoáng với kíp xe và các anh đã đi đến quyết định đánh cảm tử.
Trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển đã mưu trí, dũng cảm chỉ huy xe 377 tả xung hữu đột, lao thẳng vào đội hình xe tăng địch bắn cháy liên tiếp 7 xe M41, làm địch rối loạn đội hình.
Trong lúc hỗn chiến, xe 377 bị trúng đạn bốc cháy. Đúng lúc ấy, xe 354 và 369 có bộ binh đi cùng kịp thời chi viện làm chủ căn cứ Đắc Tô 2.
Cụm căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh là tuyến phòng ngự mạnh nhất của địch ở Bắc Tây Nguyên đã hoàn toàn bị tiêu diệt.
Trận đánh kết thúc, đồng đội tìm thấy xe 377 đang bốc cháy giữa ngổn ngang xác xe tăng địch, cả kíp xe 4 người đã anh dũng hy sinh.
Bên cạnh thi thể không còn nguyên vẹn của các anh, chỉ còn đó những nắm cơm đã cháy thành than mà các anh chưa kịp ăn giữa hai trận đánh.
Thương tiếc khôn nguôi, đồng đội đã để các anh nằm lại với đất mẹ Tây Nguyên, với Đắc Tô- Tân Cảnh, nơi các anh đã chiến đấu và anh dũng hy sinh.
Ghi nhận những thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 9-1-2009, kíp xe tăng 377 đã được Chủ tịch nước truy phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Hiện nay, cán bộ, nhân viên Bảo tàng Lực lượng Tăng Thiết giáp đã sưu tầm và tổ chức trưng bày, giới thiệu rất nhiều hiện vật nguyên gốc về kíp xe 377.
Đó là bằng công nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của Chủ tịch nước; bi đông và sổ học tập chính trị của Trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển; di ảnh của 4 liệt sĩ trên kíp xe; hình ảnh xe 377 khi chiến đấu ở Tây Nguyên; kế hoạch sử dụng tăng-thiết giáp trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên tháng 3-1972; lá thư cuối cùng của liệt sĩ Nguyễn Đắc Lượng gửi người anh trai; nắm cơm cháy trong xe tăng…
Báo QĐND Online trân trọng giới thiệu với bạn đọc hình ảnh những hiện vật của “kíp xe bất tử” 377:
Bi đông và sổ học tập chính trị của Trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển
Ảnh 4 liệt sĩ trên kíp xe
Xe 377 khi chiến đấu ở Tây Nguyên
Lá thư cuối cùng của liệt sĩ Nguyễn Đắc Lượng gửi người anh trai
Nắm cơm cháy các liệt sĩ chưa kịp ăn trong xe tăng 377

LẤY VŨ KHÍ ĐỊCH ĐỂ ĐÁNH ĐỊCH

20:25 |
“Lấy vũ khí của địch để đánh địch” là phương châm hành động của bộ đội ta trong chiến đấu, đồng thời là biện pháp quan trọng để bảo đảm kỹ thuật góp phần cho chiến đấu thắng lợi. Việc này được tiến hành từ những trận đánh đầu tiên khi quân đội ta mới ra đời và tiếp tục được vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong 30 năm chiến tranh giải phóng. Đặc biệt là trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, cách đây tròn 40 năm về trước, để tập trung một khối lượng lớn vũ khí trang bị kỹ thuật (VKTBKT) cho chiến đấu.
Trước khi vào Chiến dịch Tây Nguyên, ta đã có công tác chuẩn bị chu đáo về hậu cần, kỹ thuật. Đoàn 559 đã sử dụng hơn 1000 xe vận tải cùng các lực lượng khác vận chuyển vật chất đạt 110% kế hoạch, bảo đảm đủ cho bộ đội Tây Nguyên hoạt động trong cả năm 1975. Các căn cứ hậu cần, kỹ thuật của ta cũng đã tiếp nhận 1.681 tấn vũ khí, đạn. Song, ngay trong những trận đánh mở màn chiến dịch ngày 10-3, Trung đoàn Đặc công 198 đã thực hiện tốt phương châm “Lấy vũ khí của địch để đánh địch”, nhanh chóng đánh chiếm kho Mai Hắc Đế, thu giữ 50 nhà kho đạn pháo (hơn 100.000 tấn), 200 súng các loại, kịp thời trang bị cho các đơn vị sử dụng, tăng cường hỏa lực cho các đơn vị trên chiến trường. Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi, ta đã thu hơn 10 nghìn tấn chiến lợi phẩm, trong đó có 3.855 tấn đạn, 150 tấn vật chất cùng hàng chục nghìn khẩu súng, pháo, xe ô tô, trang thiết bị quân sự...
Đến Chiến dịch Trị Thiên-Huế, Đà Nẵng, ta tiếp tục thu được 102.027 tấn chiến lợi phẩm, trong đó có hàng vạn tấn vũ khí đạn dược. Khối lượng vật chất, kỹ thuật to lớn này đã kịp thời bổ sung cho bộ đội ta bước vào Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. “Lịch sử kỹ thuật quân sự Việt Nam, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, có ghi: “Chiến dịch Tây Nguyên, Trị Thiên-Huế, Đà Nẵng đã tăng sức chiến đấu của ta lên gấp bội. Ta thu được một khối lượng lớn vũ khí đạn dược của địch. Quân chủ lực trong một thời gian ngắn đã tăng lên gấp bội, có sức cơ động khắp chiến trường”. Trong đội hình xe đưa các binh đoàn chủ lực cơ động thần tốc vào Chiến dịch Hồ Chí Minh, có nhiều phương tiện, vũ khí thu được của địch từ các chiến dịch trước đó. Trung tướng Nguyễn Ân, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 (Quân đoàn 2) cho biết: “Để bảo đảm cho sư đoàn cơ động chiến đấu, tiến đánh vào Dinh Độc Lập, sào huyệt cuối cùng của kẻ thù, Sư đoàn 304 đã sử dụng hơn 400 phương tiện các loại, trong đó có nhiều phương tiện thu được của địch trên chiến trường. Bản thân tôi là Sư đoàn trưởng khi chỉ huy bộ đội tiến vào giải phóng Sài Gòn cũng cơ động trên một chiếc xe chiến lợi phẩm...”.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã huy động tổng lực về lực lượng, VKTBKT để giành thắng lợi. Phương châm “lấy vũ khí của địch để đánh địch” tiếp tục được vận dụng sáng tạo, hiệu quả. Điển hình nhất là việc ta đã sử dụng máy bay thu được của địch để đánh địch đúng vào thời điểm then chốt của chiến dịch, khiến cho chúng càng thêm hoảng loạn, nhanh chóng sụp đổ. Ngày 28-4-1975, “Phi đội quyết thắng”, gồm 5 máy bay A37 thu được của địch, do phi công Nguyễn Thành Trung bay dẫn đường đã cất cánh từ Sân bay Thành Sơn (Phan Rang), cắt bom chính xác vào các mục tiêu trong Sân bay Tân Sơn Nhất, phá hủy 24 máy bay của địch. Thực hiện trận đánh này, một số phi công của ta đã phải nỗ lực huấn luyện chuyển loại gấp trong 6 ngày. Cán bộ kỹ thuật của Quân chủng Phòng không-Không quân đã chuẩn bị kỹ máy bay A37 từ Đà Nẵng, hóa nghiệm xăng dầu, đưa máy bay vào Phan Rang bí mật, an toàn.
Thực hiện phương châm “lấy vũ khí của địch để đánh địch”, thể hiện rõ trong các chỉ thị, quyết định của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về việc tiếp quản, thu hồi trang bị, vật tư ở chiến trường trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Ngày 27-3-1975, thực hiện chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật đã thành lập đoàn tiếp quản, thu hồi cơ sở vật chất, vũ khí, phương tiện chiến đấu ở chiến trường Trị-Thiên. Đến ngày 16-4-1975, Tổng cục Kỹ thuật tiếp tục thành lập Đoàn tiếp quản gồm đầy đủ các cơ quan trong ngành kỹ thuật. Ngày 20-4, Tổng cục Kỹ thuật tiếp tục ra quyết định thành lập Cơ quan tiếp quản về kỹ thuật quân sự ở Sài Gòn-Gia Định với lực lượng hùng hậu hơn 3.800 người, trong đó có 579 cán bộ. Đặc biệt, ngay sau Chiến thắng 30-4, ngày 4-5-1975, Quân ủy Trung ương đã ra Chỉ thị số 126/QUTW về công tác thu hồi, quản lý, bảo quản, sử dụng các cơ sở vật chất, kỹ thuật thu được của địch trong vùng giải phóng. Nhờ vậy, những VKTBKT thu được từ trong chiến tranh đã được Quân đội ta quản lý, sử dụng hiệu quả...
Ngày nay, trước yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội, việc giữ tốt, dùng bền, sử dụng an toàn, tiết kiệm, hiệu quả VKTBKT, trong đó có những VKTBKT thu được từ trong các cuộc chiến tranh giải phóng trước đây luôn là nhiệm vụ thường xuyên của cán bộ, chiến sĩ toàn quân. Đó vừa là tình cảm, vừa là trách nhiệm, thể hiện sự trân trọng về những thành quả đã được đổi bằng xương máu của các thế hệ đi trước. Phương châm “lấy vũ khí của địch để đánh địch” là bài học kinh nghiệm sâu sắc, tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng phù hợp trong công tác bảo đảm kỹ thuật trong giai đoạn mới...
ĐÀO DUY HÒA - HOÀNG NGỌC CẨN, Giảng viên Học viện Chính trị.

CHIẾN DỊCH TRỊ - THIÊN 1975

21:23 |
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 thật sự là một trận quyết chiến chiến lược vĩ đại nhất của quân và dân ta trong thế kỷ 20; trong đó, Trị - Thiên là một trong những chiến dịch giành thắng lợi lớn và triệt để nhất, có ý nghĩa chiến lược và chính trị rất quan trọng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi trọn vẹn của Ðại thắng mùa Xuân 1975.

Chỉ sau 21 ngày đêm chiến đấu (từ ngày 5 đến 25-3-1975), quân và dân Trị - Thiên - Huế và Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang) đã nhanh chóng đập tan hệ thống căn cứ quân sự trọng yếu, tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn một bộ phận bộ máy quân sự lớn, gồm nhiều đơn vị sừng sỏ, một phần lực lượng tổng dự bị chiến lược cùng nhiều loại vũ khí, trang bị và phương tiện quân sự hiện đại của đội quân Việt Nam cộng hòa (1). Thắng lợi của Chiến dịch Trị - Thiên là đòn phủ đầu đích đáng giáng vào kế hoạch phòng thủ co cụm chiến lược mới của địch ở vùng đồng bằng duyên hải miền trung. Bởi, ngay từ khi nhận thấy Tây Nguyên thất thủ, đế quốc Mỹ và đội quân Việt Nam cộng hòa đã chủ trương lấy Trị - Thiên - Huế làm một trong những trung tâm phòng ngự cố thủ, án ngữ ở phía bắc để che chở và bảo vệ căn cứ hậu cần, kỹ thuật chiến lược khu vực miền Trung của chúng (trọng tâm là Huế và Ðà Nẵng).
Thực hiện mệnh lệnh tác chiến của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh: "Trị - Thiên - Huế phải tiến hành các chiến dịch tổng hợp cả quân sự và chính trị, bằng lực lượng cả chủ lực của Bộ, của địa phương Quân khu, phối hợp chặt chẽ giữa ba thứ quân, ba mũi giáp công. Trong chiến dịch tổng hợp đó phải nhằm: tiêu diệt và làm tan rã một phần quan trọng sinh lực địch, phải diệt gọn được từng tiểu đoàn, trung đoàn địch; tạo điều kiện đánh bại cơ bản kế hoạch bình định của địch ở đồng bằng, giành phần lớn nhân dân, giành quyền làm chủ; khi địch đã hoang mang dao động mạnh thì phải nhanh chóng chớp lấy thời cơ, tiến lên hành động mạnh bạo, giành thắng lợi lớn nhất. Phải có hai kế hoạch: kế hoạch "cơ bản" và kế hoạch "thời cơ"... "(2); các lực lượng vũ trang và nhân dân Trị - Thiên cùng Quân đoàn 2 (binh đoàn chủ lực cơ động của Bộ đứng chân trên địa bàn) khẩn trương xây dựng và triển khai kế hoạch chiến lược năm 1975.
Chủ động nắm bắt sự chuyển biến tình hình, Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 đã nhạy bén trước thời cơ lớn xuất hiện, nhanh chóng quán triệt và hạ quyết tâm tập trung lực lượng ba thứ quân, tranh thủ thời cơ thuận lợi năm 1975, đẩy mạnh tiến công tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của chúng ở Trị - Thiên. Khi quân địch thất thủ ở Buôn Ma Thuột, tiếp đến là đòn phản kích của Sư đoàn 23 bị đập tan, chúng vỡ trận và nhanh chóng rút khỏi Tây Nguyên, thời cơ giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế và các tỉnh đồng bằng duyên hải miền trung xuất hiện. Ngay lập tức Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 thực hiện kế hoạch chia cắt chiến lược, cô lập Huế.
Nắm chắc thời cơ, chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị của cấp trên, Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 chủ động, tích cực hành động táo bạo, linh hoạt và sáng tạo, quyết tâm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao. Theo đó, Quân đoàn 2 sử dụng Sư đoàn 325 nhanh chóng tiến công quân địch, khẩn trương phát triển ra chiếm giữ quốc lộ số 1, chặn cắt đường cơ động của chúng. Sư đoàn 324 chỉ để lại một bộ phận lực lượng thích hợp kìm giữ, thu hút, giam chân địch ở núi Bông, núi Nghệ, điểm cao 303, còn đại bộ phận lực lượng thần tốc cơ động xuống đánh địch ở vùng đồng bằng. Tận dụng thời cơ, hành động quyết đoán, táo bạo, bất ngờ nên các đơn vị của Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 đã thực hiện bao vây được quân địch cả trên bộ và ven biển, làm tiêu hao và đánh tan sư đoàn 1 bộ binh, lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến quân đội Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn tỉnh Thừa - Thiên, chiếm thành phố Huế hầu như nguyên vẹn.
Cũng cần phải nói thêm rằng, đòn tiến công của bộ đội chủ lực và địa phương không chỉ đóng vai trò quyết định trong việc tiêu diệt địch, mà còn tạo ra thời cơ và thực sự là "đòn xeo" thúc đẩy phong trào nổi dậy của quần chúng ở nông thôn đồng bằng và thành thị, phá bình định, thế kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ. Cụ thể, trong đợt đầu chiến dịch, bộ đội chủ lực và địa phương tác chiến nhỏ, đánh giao thông, căn cứ kho tàng... địch, nghi binh chiến dịch, lực lượng tại chỗ và nhân dân các địa phương chủ yếu đấu tranh phá lỏng thế kìm kẹp của địch, đưa phong trào quần chúng tiến lên, hoạt động dưới hình thức hợp pháp là chính. Khi chiến dịch chuyển sang tiến công theo "kế hoạch thời cơ" - các mũi tiến công của bộ đội chủ lực diễn ra mãnh liệt, các mục tiêu trọng yếu của địch bị tiêu diệt đã mở ra thời cơ thuận lợi cho phong trào nổi dậy của quần chúng đồng loạt diễn ra mạnh mẽ, đều khắp các địa phương. Lực lượng kìm kẹp của địch bị giải tán, chính quyền cơ sở bị xóa bỏ, chính quyền cách mạng ở ấp xã được thành lập.
Với thắng lợi Trị - Thiên - Huế mùa Xuân 1975, chúng ta không chỉ đập tan kế hoạch co cụm ở Trị - Thiên và kế hoạch bảo toàn lực lượng rút chạy về co cụm ở Ðà Nẵng của đội quân Việt Nam cộng hòa, mà quan trọng hơn lại tạo ra thời cơ chiến lược lớn cho quân và dân ta đẩy nhanh tốc độ tiến công vào phía nam, giải phóng Ðà Nẵng và một loạt hệ thống căn cứ, thành phố, thị xã khác của địch.
Thắng lợi to lớn của ta - thảm bại quá lớn của địch ở Trị - Thiên - Huế đã tạo ra phản ứng dây chuyền, giáng thêm một đòn chí mạng vào tinh thần, ý chí và sức chiến đấu của cán binh đội quân Sài Gòn, đẩy chúng lao sâu và nhanh hơn nữa đến bờ vực suy sụp về tư tưởng và tổ chức, uy hiếp trực tiếp đến tập đoàn phòng ngự của địch ở Quảng Nam - Ðà Nẵng nói riêng và phần đất còn lại ở miền nam nói chung. Ðến đây thế trận của địch vốn đã bị co hẹp, rối loạn, nay càng bị dồn nén, hỗn loạn hơn. Thắng lợi của Chiến dịch Trị - Thiên đã làm thay đổi hẳn tương quan lực lượng địch ta trên hướng tiến công chiến lược phía bắc, tạo ra thời cơ thuận lợi để quân và dân ta thần tốc tiến xuống phía nam, tiếp tục mở chiến dịch tiến công giải phóng Ðà Nẵng - Trung tâm liên hợp quân sự lớn của Mỹ và đội quân Việt Nam cộng hòa tại miền trung.
Kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng Trị - Thiên - Huế, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước (1975 - 2015) là dịp để chúng ta ôn lại một trang sử liệt oanh và hào hùng bậc nhất của dân tộc Việt Nam vào thế kỷ 20; đồng thời tiếp tục khẳng định sự thành công xuất sắc trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành chiến tranh của Ðảng ta, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh; một bước phát triển vượt bậc về nghệ thuật chiến dịch của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong bối cảnh thực tế đặt ra của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, trực tiếp nhất là nhiệm vụ bảo vệ an ninh chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của đất nước, những bài học lịch sử, những kinh nghiệm thực tiễn được đúc kết từ Chiến dịch Trị - Thiên mùa Xuân 1975 vẫn giữ nguyên giá trị để tiếp tục nghiên cứu, vận dụng một cách phù hợp và sáng tạo trên cả phương diện chiến lược cũng như trong ứng phó với những tình huống bất thường diễn ra tại những khu vực có tranh chấp với đối phương trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay.
HUY NGUYỄN (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)

SỰ TÀN KHỐC CỦA CHIẾN TRANH

21:20 |
- REDS.VN

Quy mô và sự tàn khốc của cuộc chiến tranh mà người Mỹ gây ra trên đất nước Việt Nam là điều mà những thế hệ sinh trưởng trong hòa bình không bao giờ có thể hình dung một cách trọn vẹn.
Tuy vậy, thông qua những hình ảnh lịch sử được ghi lại, chúng ta sẽ cảm nhận được phần nào âm hưởng của một thời đại đau thương mà cũng rất đỗi huy hoàng của đất nước mình…
Dưới đây là 47 bức ảnh tiêu biểu về cuộc chiến tranh Việt Nam do các phóng viên phương Tây thực hiện, được tổng hợp và giới thiệu trên trang BOSTON.COM.
Trực thăng Mỹ nã đạn vào những bụi cây để ểm trợ cho bộ binh VNCH trong cuộc tấn công vào một căn cứ của quân Giải phóng tại một địa điểm nằm ở Tây Bắc Sài Gòn, cách Tây Ninh 18 dặm về phía Bắc, gần biên giới Campuchia vào tháng 3/1965. (Ảnh: AP / Horst Faas).
Một chiếc xe tăng M41 của quân đội VNCH tiến vào một vị trí có quân Giải phóng ẩn nấp ở Sài Gòn, tháng 05/1960. (Ảnh: Bộ quốc phòng Mỹ).

Một trực thăng CH-46 Sea Knight của thủy quân lục chến Mỹ bốc cháy và lao xuống sau khi trúng hỏa lực mặt đất của đôí phương trong một chiến dịch Hastings ở phía Nam của vĩ tuyến 17 vào ngày 15/7/1966. Chiếc trực thăng đã bị rơi và phát nổ trên một ngọn đồi, làm một phi công và 12 lính thủy quân lục chiến thiệt mạng. Ba phi công thoát chết bị bỏng nặng (Ảnh: AP / Horst Faas).
Một người lính thủy quân lục chiến trẻ chờ đợi các đồng đội trong một cuộc đổ quân ở bãi biển Đà Nẵng, ngày 3/8/1965. (Ảnh: US Marine Corps).
Bom napalm của Mỹ phát nổ và tạo ra quầng lửa lớn ngay gần các binh sĩ Mỹ đang tuần tra tại miền Nam Việt Nam năm 1966 (Ảnh: AP).
Một người lính VNCH phải bịt mặt để tránh mùi tử khí khi vượt qua một con đường đầy xác lính Mỹ và Việt Nam sau cuộc đụng độ với quân du kích ở đồn điền cao su Michelin, khoảng 45 dặm về phía Đông Bắc Sài Gòn, ngày 27/11/1965. Hơn 100 thi thể đã được thu hồi sau trận đánh. (Ảnh: AP / Horst Faas).
Ronald A. Payne, một chiến binh thuộc Sư Đoàn 25 Bộ Binh của Mỹ đang kiểm tra một lối vào đường hầm bằng chiếc đèn pin cá nhân, trước khi chui xuống đó để tìm những người Việt Cộng hoặc các thiết bị của họ, tại địa điểm cách Sài Gòn 25 dặm về phía Bắc. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Tàu sân bay USS Forrestal nhìn từ trên không. Khảng một tháng trước đó, vào tháng 7/1967, một vụ nổ đã làm con tàu bị hư hại, cùng 132 binh sĩ thiệt mạng và 62 người bị thương trong khi thi hành công vụ tại vùng biển ngoài khơi Việt Nam. (Ảnh: U.S Navy).
Một chiếc trực thăng UH-1D đang xịt thuốc làm rụng lá trên một khu rừng rậm ở đồng bằng sông Cửu Long. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Ni cô Thích Nữ Thanh Quang tự thiêu trong một nỗ lực phản đối sự đàn áp Phật giáo tại chùa Diệu Đế ở Huế, 29/5/1966. (Ảnh: AP).
Lính dù của Tiểu Đoàn 2, Lữ đoàn dù 173 giữ các khẩu súng tự động trên vai cho khỏi ướt khi vượt qua một con sông trong cơn mưa, trong cuộc tìm kiếm vị trí của Việt Cộng tại khu vực rừng Bến Cát vào ngày 25/9/1965. (Ảnh: AP/Henri Huet).
Lực lượng an ninh VNCH áp giải chiến sĩ Việt Cộng Nguyễn Văn Lém (còn được gọi là Bảy Lốp) trên một đường phố Sài Gòn vào ngày 1/2/1968, khoảng thời gian đầu của cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân. (Ảnh: AP/Eddie Adams).
Anh đã bị giám đốc cảnh sát quốc gia, tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn thẳng vào đầu và hi sinh ngay sau đó. Tấm ảnh này đã châm ngòi cho một làn sóng phẫn nộ của người dân Mỹ. (Ảnh: AP/Eddie Adams).
Tướng Nguyễn Ngọc Loan cất khẩu súng của mình sau khi thực hiện vụ giết người. (Ảnh: AP/Eddie Adams).
Người biểu tình tại Berkeley, California tuần hành phản đối cuộc chiến tại Việt Nam vào tháng 12/1965. (Ảnh: AP).
Người biểu tình phản đối chiến tranh tập hợp bên hồ Phản Chiếu tại Washington DC ngày 21/10/1967. (Ảnh: AP).
Một căn cứ của quân Giải phóng chìm trong lửa gần Mỹ Tho vào ngày 5/4/1968. Phía trước tấm ảnh là binh nhất Raymond Rumpa, thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh, với khẩu súng vác vai không giật cỡ nòng 90mm. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Một chiếc chiến đấu cơ F-100D Super Sabre bắn ra một loạt tên lửa đường kính 2,75 inch vào vị trí đối phương, ngày 1/1/ 1967. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Một lính bộ binh Mỹ ngồi chờ đợi mệnh lệnh của một đợt tấn công với khuôn mặt được vẽ ngụy trang, tháng 8/1971. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Phụ nữ và trẻ em cúi mình trong một con kênh bùn để tránh đạn trong một cuộc giao tranh tại một vị trí cách phía Tây Sài Gòn khoảng 20 dặm, ngày 1/1/1966. (Ảnh: AP/Horst Faas).
Tử thi của một lính dù Mỹ bị chết trong chiến dịch ở khu rừng già gần biên giới Campuchia (Vùng C) được chuyển đi bằng máy bay trực thăng, năm 1966. (Ảnh: AP/Henri Huet).
Thuỷ quân lục chiến Mỹ chi lên từ các hố cá nhân của họ vào lúc bình minh sau đêm thứ 3 của trận chiến chống lại các cuộc tấn công liên tục từ phía Sư đoàn 324B của quân Giải phóng, ngày 21/9/1966. (Ảnh: AP/Henri Huet).
Các thành viên của Sư đoàn Không vận 101 chụp ảnh trong chương trình biểu diễn dịp Giáng sinh tại trại Eagle, ngày 23/12/1970. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Hoạt náo viên Sammy Davis đang khích lệ tinh thần cho các thành viên của các Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 tại một điểm đóng quân bí mật, tháng 2/1972. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Một chiếc trực thăng tiếp vận tìm điểm hạ cánh trên đỉnh một ngọn đồi cháy rụi vì các cuộc giao chiến ở phía Tây của tỉnh Đắk Tô, khu vực Tây Nguyên, ngày 3/6/1968. (Ảnh: AP).
Một lính thủy quân lục chiến giúp đồng đội bị thương của mình rút lui dưới làn đạn của quân Giải phóng trong trận chiến ngày 15/ 5 1967 tại khu vực phía Nam khu phi quân sự ở miền Nam Việt Nam. (Ảnh: AP/John Schneider).
Những người phản chiến biểu tình bằng cách nằm tại khu vực Sheep Meadow, công viên trung tâm New York ngày 14/11/1969. Hàng trăm quả bóng được thả lên bầu trời, màu đen tượng trưng cho những người lính Mỹ đã thiệt mạng ở Việt Nam dưới thời Nixon và màu trắng là những người sẽ chết nếu cuộc chiến tiếp tục. (Ảnh: AP/J. Spencer Jones).
Tại khuôn viên Đại học Kent State ngày 4/5/1970, các sinh viên sơ cứu cho John Cleary sau khi anh bị lực lượng Cảnh sát Quốc gia Ohio bắn trong cuộc biểu tình chống lại việc mở rộng cuộc chiến tranh Việt Nam vào Campuchia. Anh đã sống sót. Bốn sinh viên khác đã bị giết chết và chín người bị thương trong cuộc biểu tình. (Ảnh: KSU/Doug Moore/REUTERS).
Bom napalm nổ giữa những ngôi nhà phía trước một đền thờ của đạo Cao Đài ở vùng ngoại vi của Trảng Bàng, ngày 8/6/1972. Phía trước là những người lính VNCH cùng nhân viên của nhiều hãng tin tức quốc tế khác nhau và tin tức quay phim và từ các tổ chức tin tức quốc tế khác nhau đến xem hiện trường. Có thể nhìn thấy tòa tháp của ngôi đền ở trung tâm của vụ nổ. (Ảnh: AP/Nick Ut).

NỮ TƯỚNG HUYỀN THOẠI

20:53 |
Người con gái bến Tre và sự giác ngộ cách mạng
Nữ tướng Nguyễn Thị Định sinh ngày 15-3-1920 tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà là út của 10 anh em trong gia đình nông dân giàu lòng yêu nước và cách mạng. Thuở nhỏ, bà phải sống trong xã hội thực dân và phong kiến, gia đình đông con nên khó có điều kiện cắp sách đến trường như bao người khác. Bổn phận là anh, hơn nữa thương em nhiều nên anh Ba (Ba Chẩn) đã dạy bà học cho biết cái chữ tại nhà. Tuy không học được nhiều nhưng bà rất thông minh, nhạy cảm và hiểu biết đủ điều, thích đọc nhiều truyện, đặc biệt là truyện Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu. Những nhân vật, những hình ảnh, những cuộc đời trong truyện gợi cho bà có một ước mơ vươn đến cuộc sống cao đẹp, gieo trong lòng bà tình thương sâu sắc đối với tầng lớp nghèo trong xã hội và căm ghét những cảnh bất công.
Cứ mỗi ngày đem cơm, nước cho anh Ba trong tù, tận mắt chứng kiến cảnh lính Pháp tra tấn, đánh đập dã man, thân hình bầm tím, máu chảy loang trên nền xi măng thì lòng bà lại quặn đau như thắt. Lúc này bà mới hiểu các anh bị bắt, bị đánh đập là vì làm việc cứu nước, cứu dân, chống lại Pháp, chống lại chủ điền. Từ đó bà hiểu nhiều về nỗi nhục mất nước, người giàu ức hiếp người nghèo và cần phải chống lại chúng.
Quá trình hoạt động các mạng của nữ tướng Nguyễn Thị Định
Năm 1936, vừa tròn 16 tuổi, bà bắt đầu tham gia cách mạng. Hai năm sau (1938) bà được đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng Sản Đông Dương. Cũng trong thời gian này, bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Bích – Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre, được không bao lâu thì chồng bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh tại đó. Nhận được tin chồng hy sinh, lòng căm thù của bà lại nhân gấp bội. Bất chấp con còn nhỏ, gởi lại mẹ chăm sóc, bà thoát ly tham gia họat động cách mạng tại tỉnh nhà.
Năm 1940, bà lại bị Pháp bắt và biệt giam tại nhà tù Bà Rá, tỉnh Sông Bé (nay thuộc tỉnh Bình Phước). Ba năm tù cũng là ba năm họat động kiên cường, bất khuất của bà trong nhà tù. Năm 1943, ra tù trở về Bến Tre, bà liên lạc với tổ chức Đảng, chính quyền cách mạng của tỉnh và tham gia giành chính quyền vào tháng 8-1945. Tuy còn ít tuổi nhưng nhờ có ý chí kiên cường, lòng yêu nước mãnh liệt, lại nhiều mưu trí nên bà được Tỉnh ủy chọn làm thuyền trưởng chuyến đầu tiên vượt biển ra Bắc báo cáo với Đảng và Bác Hồ về tình hình chiến trường Nam bộ và xin vũ khí chi viện. Từ đó tên tuổi của bà đỏ thắm “đường Hồ Chí Minh trên biển”.
Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ-Diệm ác liệt, với luật 10/59 của Ngô Đình Diệm, địch cứ truy tìm quyết liệt, chúng còn treo giải thưởng cho ai bắt được bà. Nhưng chúng đã không làm gì được bà vì bà luôn thay hình đổi dạng, có lúc giả làm thầy tu, thương buôn, lúc làm nông dân… và luôn được sự đùm bọc của những gia đình cơ sở cách mạng, của những người mẹ, người chị để qua mắt kẻ địch. Sự thắng lợi của phong trào Đồng Khởi Bến Tre (17-1-1960) đã trở thành biểu tượng kháng chiến kiên cường bất khuất, tiêu biểu cho phong trào cách mạng miền Nam, chuyển từ thế phòng ngự, bảo toàn lực lượng, sang thế tấn công, dẫn đến thắng lợi hoàn toàn. Đồng Khởi Bến Tre còn thể hiện rõ phương châm đánh địch bằng ba mũi giáp công, đặc biệt là phong trào đấu tranh chính trị, binh vận của đội quân tóc dài.
Sinh thời, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã từng nói: “Một người phụ nữ đã chỉ huy thắng lợi cuộc Đồng Khởi ở Bến Tre thì người đó rất xứng đáng được làm tướng và ở trong Bộ Tư lệnh đánh Mỹ”. Thế là, giữa năm 1961, bà được điều động về làm việc ở Bộ Tư lệnh miền Nam cho đến cuối năm 1964 với chức danh Bí thư Đảng–Đoàn, Chủ tịch Hội Phụ nữ. Năm 1965, bà được giao giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam đến năm 1975. Bà đã được Bác Hồ xem như một vị tướng. Bác nói: “Phó Tổng tư lệnh quân giải phóng miềm Nam là cô Ngyễn Thị Định, cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật vẻ vang cho cả miền Nam, cho cả dân tộc ta”.
Năm 1974, Bà được phong quân hàm Thiếu tướng, mặc dù là tướng, Phó Tổng tư lệnh quân giải phóng miền Nam nhưng bà rất nhân ái, rộng lượng, bao dung, sống chan hòa với mọi người, luôn thể hiện đậm nét là một người đồng đội, người chị, người mẹ hiền, tận tụy chăm sóc từ cơm ăn, áo mặc cho các chiến sĩ nhất là nam giới; những nỗi đau, mất mát và sự hy sinh cao cả của nhân dân được bà cảm nhận và chia sẽ một cách tinh tế và kịp thời. Đó là đức tính cách mạng của nữ tướng Nguyễn Thị Định đã được soi sáng nhân cách làm người cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Nữ tướng anh hùng, trung hậu, đảm đang
Từ sau ngày miền Nam được giải phóng, thống nhất đất nước, Bà Định đã giữ nhiều chức vụ trọng trách mới cùng Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo thành công việc thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhất là sự nghiệp đổi mới đất nước bà quan hệ và làm việc với nhiều nước trên thế giới. Bà nhận được nhiều phần thưởng cao quý mà Đảng và Nhà nước ta cũng như thế giới đã trao tặng.
Trung với Đảng, hiếu với dân suốt đời hy sinh cho sự nghiệp cách mạng cao cả, trước lúc mất (2 ngày), bà còn đến thăm và làm việc với lãnh đạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nhưng do tuổi cao, sức yếu, lại thêm căn bệnh đau tim nên lúc 22 giờ 50 phút ngày 26 tháng 8 (tức 28/7 al ) năm 1992, bà đã vĩnh biệt chúng ta và yên nghỉ tại Nghĩa trang Thành phố HCM.
Với 72 tuổi đời, 56 năm họat động cách mạng trung kiên, mẫu mực, suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ với đức tính khiêm tốn, vị tha, nhân hậu, giản dị, dịu hiền và luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, bà Ba Định đã là người phụ nữ tiêu biểu nhất, xứng đáng với tám chữ vàng mà Bác Hồ kính yêu đã tặng cho phụ nữ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Để tri ân công lao đóng góp của nữ tướng Nguyễn Thị Định. Ngày 30-8-1995, bà được Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. GS Trần Văn Giàu nói “Những người như chị sống làm tướng, chết thành thần”. Đúng vậy, đền thờ bà đã được xây dựng và khánh thành vào ngày 20-12-2003 để nhân dân đến viếng và thắp hương tưởng niệm. Tiếp đến, ngày 8-4-2007, Bộ Quốc phòng đã tặng tượng đồng chân dung nữ tướng trong trang phục áo bà ba, khăn rằn quấn cổ đặt tại đền thờ (tượng cao 1m75, nặng 1.025 kg, tác giả là trung tá Nguyễn Phước Tùng – Bảo tàng Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam)

TRUNG ĐỘI NỮ LÁI XE TRƯỜNG SƠN

10:30 |
Trong lớp thanh niên xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, có một trung đội của những cô gái tuổi đôi mươi lái xe Zin130, Gaz 51, Gaz 69… vượt núi băng rừng, tải thương, tải đạn suốt những năm chiến tranh ác liệt nhất.
Ba năm sau khi Mỹ can thiệp vào miền Nam Việt Nam, Tết Mậu Thân 1968, chiến sự trên các mặt trận ngày càng ác liệt. Mỹ huy động lượng lớn máy bay đánh phá các con đường trọng điểm trên chiến trường. Nhu cầu cung cấp nhân lực, vật lực cho miền Nam trở nên cấp bách. Binh đoàn Trường Sơn (Đoàn 559) được giao nhiệm vụ phải tăng khối lượng chi viện gấp hai lần thời gian trước đó.
Lái xe nam không đủ, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 giao nhiệm vụ cho Binh trạm 9, Binh trạm 12 tuyển gấp một số nữ thanh niên xung phong, lập đội lái xe vận tải tuyến hậu phương để hỗ trợ các khu vực cửa khẩu. Các cô gái tuổi đôi mươi có sức khỏe tốt, tháo vát, biết chút ít về kỹ thuật được tuyển chọn và gửi đi đào tạo cấp tốc. 
Trải qua khóa huấn luyện 45 ngày tại Nghệ An, Thanh Hóa, 40 nữ chiến sĩ lái xe và thợ sửa chữa máy được tuyển chọn. Ngày 18/12/1968, tại vùng rừng núi thuộc xã Hưng Phổ, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh), trung đội nữ lái xe mang tên nữ anh hùng Nguyễn Thị Hạnh ra đời. 
99-9278-1425436223.jpg
Những chiếc xe vận tải mà các cô gái Trường Sơn khi đó lái chủ yếu là Zin130, Gaz 51, Gaz 69... Ảnh tư liệu.
Trung tá Nguyễn Thị Hòa, nguyên chính trị viên đội lái xe chia sẻ: "Khi hết 3 năm nghĩa vụ thanh niên xung phong, đứng trước lựa chọn về địa phương, chuyển ngành hay đi văn công, chị em đã chọn cách viết đơn, xin đi học lái xe để tiếp tục chia lửa với đồng đội trên tiền tuyến và đường Trường Sơn".
Đội nữ lái xe có nhiệm vụ chở lương thực, thuốc men, súng ống, đạn dược từ Vinh (Nghệ An) theo các tuyến đường 12, 15, 18, 20, 22 vào đến bờ bắc sông Gianh (Quảng Bình). Giao hàng xong, họ lại chở thương binh, cán bộ từ miền Nam ra Bắc an dưỡng, học tập. Có lúc nhận nhiệm vụ đặc biệt, đội lái xe phải đi sâu vào chiến trường, sang đất bạn Lào.
Chuyến vận tải của các cô gái bắt đầu lúc 17h chiều và kết thúc vào 5h sáng hôm sau. Người giỏi đi một mình, tay lái yếu hơn thì đi hai người. Họ phải chặt lá ngụy trang, đi ban đêm bằng ánh sáng hắt lên từ bóng đèn "quả táo" đặt dưới gầm xe để tránh máy bay phát hiện. Đến nơi tập kết hàng hóa, các cô kiêm luôn việc bốc vác; dọc đường về thì chăm sóc, động viên thương binh, làm thay cả nhiệm vụ của y tá.
Trường Sơn khi ấy trở thành nơi thử nghiệm các loại bom, mìn, chất độc hóa học rải xuống suốt ngày đêm. Thời tiết khắc nghiệt, mùa mưa kéo dài 6 tháng biến con đường đất trở thành những thảm bùn lầy, công binh rải bao nhiêu đá nhưng nhiều xe vẫn bị "nuốt" khi đi qua. Mùa khô nắng cháy, gió Lào thổi đến héo hon cả người, chưa kể vắt, muỗi rừng, rắn rết.
Trên các tuyến đường vận tải, những địa danh như bãi Dinh, Cổng Trời, bãi Đá Đẽo, phà Xuân Sơn, cầu Trạ Ang, ngầm Tà Lê, đèo Phulanhich... được gọi là trọng điểm của trọng điểm, những túi bom của chiến trường. Đoàn xe vận tải chủ yếu men theo sườn núi bên Tây Trường Sơn để đi, một bên là núi, một bên là vực sâu thăm thẳm. Có đoạn đường chỉ vừa cho chiếc xe lăn bánh, người lái căn đường không chuẩn là cả người, cả xe rơi xuống vực.
truongson2-3560-1425451828.jpg
Những đoàn xe vận tải vượt Trường Sơn, tiếp sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Ảnh tư liệu.
Chiến công lớn nhất của trung đội là lần vượt Cổng Trời (Quảng Bình). Cuối năm 1969, trong lúc mùa mưa ở Lào bắt đầu thì cũng là lúc Mỹ điên cuồng bắn phá đường 12. Con đường dài hơn 50 km ngoằn ngoèo bị máy bay Mỹ nhè những đoạn gấp khúc mà thả bom, trọng điểm là khu vực Cổng Trời dốc cao dựng đứng nối với cửa khẩu Cha Lo thông sang Lào. Đây là nơi tập kết hàng hóa và thương binh, nối hai tuyến đường Trường Sơn Đông và Trường Sơn Tây. 
Đêm 2/4/1969, đoàn xe nhận nhiệm vụ phải cấp tốc chở súng ống, đạn dược vượt Cổng Trời chi viện ngay cho các đơn vị phía trong. Binh trạm 12 lấy tinh thần xung phong chở hàng ngay trong đêm. Cô gái Phạm Thị Phàn khi ấy người bé nhỏ, chỉ hơn 40 kg đã xung phong dẫn đầu. 
"Đoàn xe đi trong ánh sáng soi bằng hỏa pháo của đối phương, tiếng động cơ máy bay gầm rú trên đầu như xay lúa. Khi xe của chúng tôi vượt lên dốc cao, đèn dưới gầm xe hắt lên khiến địch phát hiện. Biết đối phương sắp đánh tọa độ, tôi nhấn mạnh ga lao nhanh về phía trước, cả đoàn lao theo sau. Khi chúng tôi vừa vượt qua con dốc thì nơi đó trở thành chiến địa rực lửa", bà Phàn hiện sống ở Thái Bình kể lại. Sau chuyến đi này, bà Phàn được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng chiếc đồng hồ Poljiot mà đến giờ bà vẫn giữ làm kỷ vật. 
Trong ký ức của nhiều lái xe nam trên đường Trường Sơn, thi thoảng họ gặp những chiếc xe tải cản đường vì bị hỏng, các nữ tài xế không dám một mình xuống sửa vì sợ đêm tối, sợ ma. Bảo lùi lại thì chị em bảo: "Xe em không có số lùi, các anh sửa chữa hộ em đề rồi cùng tiến". Hay có lần trung đội lái xe bị địch ném bom dính đội hình đang vận chuyển. Quân y chiến trường đến cấp cứu vẫn nghe tiếng các cô thều thào "Anh ơi, xe của em có bị làm sao không?".
Đầu năm 1972, trung đội nữ lái xe Trường Sơn được điều về Trường đào tạo lái xe D255, thuộc Cục quản lý xe máy. 40 cô gái lái xe trở thành giáo viên đào tạo cho 2 khóa học viên gồm 300 lái xe nữ. Đội quân này tiếp tục phục vụ tại các kho xe, kho hàng, bệnh viện quân đội thay cho các lái xe nam ra trận. Tại đây, Đại đội nữ lái xe C13 được thành lập với nòng cốt là trung đội nữ lái xe Nguyễn Thị Hạnh và 300 học viên lái xe nữ. Sau này, đội nữ lái xe được điều về trường đào tạo lái xe đi tập luyện tham gia lễ duyệt binh năm 1973, 1975, điều khiển những chiếc xe chỉ huy, xe thông tin, xe kéo pháo 157.
59-4448-1425436223.jpg
Trung đội nữ lái xe mang tên anh hùng Nguyễn Thị Hạnh ngày thành lập gồm 40 cô gái, được tuyển chọn từ những nữ thanh niên xung phong trẻ tuổi, tháo vát. Ảnh tư liệu.
Khi đất nước thống nhất, trung đội nữ lái xe người phục viên, người tiếp tục làm bạn với tay lái. Có người được hưởng cuộc sống yên ấm bên gia đình, nhưng cũng có người được làm mẹ không làm vợ, người làm vợ không được làm mẹ, có người ở vậy không lấy chồng. Bom đạn Trường Sơn không động được đến tuổi thanh xuân của 40 cô gái, nhưng 19 người trong số họ là thương binh, 5 người mất vì ung thư bởi chất độc hóa học, cơ thể nhiễm chì bởi bao lần dùng miệng để hút xăng giữa rừng già.
Thiếu tướng Nguyễn Bá Tòng, nguyên Phó Tư lệnh chính trị Binh đoàn Trường Sơn gọi họ là "những cô gái cưỡi voi ra trận và chiến thắng trở về". Từng có nhiều kỷ niệm gắn bó với đội nữ lái xe từ hồi còn làm nhiệm vụ ở đại đội công binh đảm bảo thông suốt trên tuyến đường 20 Quyết Thắng, theo thiếu tướng Tòng, cuộc chiến khi ấy rất khốc liệt, con gái vào chiến trường đã gian khổ, xông pha trên đường Trường Sơn cùng những chiếc xe quân sự thì chỉ có 40 cô gái ấy. Mỗi khi xe qua ngầm, đến cửa khẩu đều nghe tiếng các cô cười, chào hỏi anh em công binh. 
"Đội lái xe nhỏ nhưng sức động viên thì lớn. Cánh lái xe nam thấy các cô là hết văng tục chửi bậy. Cậu nào tức quá muốn bật ra cũng ghìm ngay trong miệng. Chị em lái xe vượt Cổng Trời, vượt Khe Tang, Khe Ve không những khích lệ lái xe nam, còn động viên luôn cả anh em công binh chúng tôi. Có anh ngày sốt rét run cầm cập, tối đỡ rồi liền ra làm nhiệm vụ đảm bảo thông suốt cho tuyến đường", ông Tòng kể.
Khi gặp các chiến sĩ gái lái xe Trường Sơn, nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu cảm nhận: "Gặp chiến sĩ gái lái xe Trường Sơn, tôi liên tưởng đến các nữ vệ quốc của Liên Xô, các nữ phi công Liên Xô chống phát xít Đức. Tôi thấy tự hào về phụ nữ Việt Nam".
Hàng năm đến ngày truyền thống, đội nữ lái xe Trường Sơn năm xưa vẫn gặp mặt nhau ôn lại chuyện cũ và luôn ghi nhớ lời đội trưởng Phùng Thị Viên: "Đời có thể quên chúng mình, nhưng chị em chúng mình đừng bao giờ quên nhau".
Trung đội nữ lái xe Trường Sơn là đội nữ duy nhất trong hai cuộc kháng chiến; đại đội nữ lái xe là đơn vị huấn luyện, đào tạo lái xe nữ duy nhất của quân đội. Năm 1970, trung đội nữ lái xe được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng huân chương chiến công hạng ba, 28 người được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba, nhiều người là chiến sĩ thi đua nhiều năm liền. Năm 2014, đại đội nữ lái xe C13 đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đại đội trưởng Phùng Thị Viên được truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Hoàng Phương