KỶ VẬT CỦA KÍP XE TĂNG BẤT TỬ

22:35 |

Đến Bảo tàng Lực lượng Tăng-Thiết giáp vào những ngày tháng 3 lịch sử, chúng tôi được Thiếu tá Mai Thị Ngọc, Giám đốc Bảo tàng giới thiệu những hiện vật quý gắn liền với lịch sử Binh chủng Tăng-Thiết giáp anh hùng.

Đặc biệt, Bảo tàng hiện lưu giữ rất nhiều hiện vật nguyên gốc của “kíp xe bất tử” 377. Thiếu tá Mai Thị Ngọc cho biết:
“377 là kíp xe đã lập công xuất sắc và anh dũng hy sinh trong trận Đắc Tô 2, Mặt trận Tây Nguyên vào ngày 24-4-1972.
Kíp chiến đấu trên xe hôm đó gồm 4 thành viên: Thiếu uý Nguyễn Nhân Triển, Trung đội trưởng Trung đội Tăng 3, trưởng xe; đồng chí Cao Trần Vịnh, lái xe; đồng chí Nguyễn Đắc Lượng, Pháo thủ số 1; đồng chí Phạm Văn Ái, Pháo thủ số 2”.
Lịch sử Binh chủng ghi lại: Đúng 4 giờ 30 phút sáng ngày 24-4-1972, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công căn cứ Tân Cảnh.
Từ hướng Đông Bắc và Tây Bắc, xe tăng ta nhanh chóng tiêu diệt các lô cốt, hoả điểm sát cửa mở và yểm trợ lẫn nhau vượt qua các lớp hàng rào thép gai, dùng hoả lực chi viện dẫn dắt bộ binh xung phong vào cứ điểm.
Ta lần lượt đánh chiếm các vị trí quan trọng như khu cố vấn Mỹ, khu binh sĩ Ngụy, Sở chỉ huy Trung đoàn 42 ngụy.
Sự xuất hiện của một lực lượng lớn bộ binh tinh nhuệ và xe tăng ta đã khiến địch thực sự hoảng loạn.
Bất chấp lệnh của quan thầy Mỹ, địch ở căn cứ Tân Cảnh đã vứt bỏ tất cả xe pháo rút chạy. Đến 8 giờ ngày 24-4-1972, quân địch ở căn cứ Tân Cảnh cơ bản bị tiêu diệt và bị bắt sống.
Trong lúc địch đang hoang mang vì mất Tân Cảnh, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định điều một trung đội xe tăng và một xe cao xạ 57 ly tự hành hiệp đồng với Trung đoàn Bộ binh 1 đánh thẳng vào căn cứ Đắc Tô 2.
Suốt nửa buổi sáng chiến đấu liên tục, không có thời gian chuẩn bị, cơm chưa kịp ăn, Trung đội tăng 3 gồm các xe 377, 354, 369 vừa củng cố đội hình cơ động, vừa nắm địch, bắt liên lạc hiệp đồng với bộ binh.
Xe 377 dẫn đầu đội hình vọt lên với tốc độ cao, khéo léo di chuyển vượt qua các đợt ngăn chặn, đánh phá ác liệt của máy bay địch, tiếp cận mục tiêu sớm nhất.
Quân địch trong căn cứ thấy quân ta chỉ có một xe tăng, không có bộ binh đi kèm liền cho 10 xe M41 chia làm 2 mũi bao vây xe 377.
Lúc này, xe 377 rơi vào tình thế vô cùng hiểm nghèo, một mình giữa vòng vây xe tăng địch. Trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển đã hội ý chớp nhoáng với kíp xe và các anh đã đi đến quyết định đánh cảm tử.
Trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển đã mưu trí, dũng cảm chỉ huy xe 377 tả xung hữu đột, lao thẳng vào đội hình xe tăng địch bắn cháy liên tiếp 7 xe M41, làm địch rối loạn đội hình.
Trong lúc hỗn chiến, xe 377 bị trúng đạn bốc cháy. Đúng lúc ấy, xe 354 và 369 có bộ binh đi cùng kịp thời chi viện làm chủ căn cứ Đắc Tô 2.
Cụm căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh là tuyến phòng ngự mạnh nhất của địch ở Bắc Tây Nguyên đã hoàn toàn bị tiêu diệt.
Trận đánh kết thúc, đồng đội tìm thấy xe 377 đang bốc cháy giữa ngổn ngang xác xe tăng địch, cả kíp xe 4 người đã anh dũng hy sinh.
Bên cạnh thi thể không còn nguyên vẹn của các anh, chỉ còn đó những nắm cơm đã cháy thành than mà các anh chưa kịp ăn giữa hai trận đánh.
Thương tiếc khôn nguôi, đồng đội đã để các anh nằm lại với đất mẹ Tây Nguyên, với Đắc Tô- Tân Cảnh, nơi các anh đã chiến đấu và anh dũng hy sinh.
Ghi nhận những thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 9-1-2009, kíp xe tăng 377 đã được Chủ tịch nước truy phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Hiện nay, cán bộ, nhân viên Bảo tàng Lực lượng Tăng Thiết giáp đã sưu tầm và tổ chức trưng bày, giới thiệu rất nhiều hiện vật nguyên gốc về kíp xe 377.
Đó là bằng công nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của Chủ tịch nước; bi đông và sổ học tập chính trị của Trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển; di ảnh của 4 liệt sĩ trên kíp xe; hình ảnh xe 377 khi chiến đấu ở Tây Nguyên; kế hoạch sử dụng tăng-thiết giáp trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên tháng 3-1972; lá thư cuối cùng của liệt sĩ Nguyễn Đắc Lượng gửi người anh trai; nắm cơm cháy trong xe tăng…
Báo QĐND Online trân trọng giới thiệu với bạn đọc hình ảnh những hiện vật của “kíp xe bất tử” 377:
Bi đông và sổ học tập chính trị của Trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển
Ảnh 4 liệt sĩ trên kíp xe
Xe 377 khi chiến đấu ở Tây Nguyên
Lá thư cuối cùng của liệt sĩ Nguyễn Đắc Lượng gửi người anh trai
Nắm cơm cháy các liệt sĩ chưa kịp ăn trong xe tăng 377
Read more…

CÔNG AN HÀ NỘI PHÔ DIỄN SỨC MẠNH BẢO VỆ HỘI NGHỊ IPU

20:42 |

Xe ZAAM chống đạn, xe bọc thép hạng nặng, thiết giáp bộ binh bánh lốp, xe phun nước chống bạo động... được giới thiệu trong lễ ra quân bảo vệ IPU 132 sắp diễn ra tại Hà Nội.

Chiều 22/3, Công an Hà Nội làm lễ ra quân bảo vệ Đại hội đồng liên minh Nghị viện Thế giới (IPU 132) diễn ra ngày 28/3 - 1/4 và các sự kiện quan trọng năm 2015. Những khí tài đặc biệt, hiện đại được huy động nhằm bảo vệ hội nghị diễn ra tới đây được an toàn.
Xe ZAAM chống đạn của lực lượng cảnh sát đặc nhiệm, cảnh sát cơ động với mục đích chống khủng bố, giải cứu con tin.
Xe bọc thép hạng nặng chống đạn với nhiều chức năng hiện đại cũng được huy động lần này.
Xe bọc thép chống đạn là một trong những khí tài chủ chốt làm nhiệm vụ bảo vệ IPU 132 tại Hà Nội.
Xe thiết giáp bộ binh bánh lốp (BTR - 60PB) của Bộ Tư lệnh Thủ đô.
Đây là loại xe chuyên dụng, có hỏa lực mạnh, tính cơ động cao, chở bộ đội tác chiến trên nhiều địa hình và làm nhiệm vụ chống bạo loạn.
Xe phun nước đặc chủng chống bạo động của lực lượng cảnh sát cơ động. Đây được xem là loại xe có nhiều tính năng hiện đại, hiệu quả bậc nhất hiện nay để chống bạo động. Thiết bị mang mã hiệu JCR-6500 do JINO Motors sản xuất có lớp lưới thép bảo vệ kính phía trước, 2 bên cửa và khoang chứa nước khá lớn.
Theo sau là hai xe phun nước đặc chủng chống bạo động của cảnh sát cơ động do hãng Hyundai sản xuất. Súng phun nước chính đặt trên nóc cabin và được bảo vệ bởi hộp thép.
Lực lượng phòng hóa của Bộ Tư lệnh Thủ đô cũng có mặt. Đây là lực lượng tinh nhuệ, chuyên xử lý những tình huống khi có bom hóa học, cháy nổ xảy ra.
Xe thiết giáp chống bạo động của Bộ Tư lệnh Thủ đô.
Xe truyền thu phát tín hiệu các vệ tinh Vinasat 1, Vinasat 2 của Bộ Tư lệnh Thủ đô nhằm đảm bảo tín hiệu diễn ra thông suốt.
Hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ cảnh sát cơ động làm nhiệm vụ tại IPU 132.
Hàng rào dây thép gai được chuyên chở trên những chiếc xe kéo.
Lực lượng cảnh sát 113 của thủ đô cũng sẵn sàng làm nhiệm vụ.
44 chiếc xe Camry Hybrid do Chính phủ Nhật Bản viện trợ sẽ làm nhiệm vụ dẫn đường, đón các đoàn nguyên thủ.
Phòng Cảnh sát giao thông Công an Hà Nội huy động toàn bộ lực lượng.
 Xe thang chuyên dụng của Sở Cảnh sát PCCC Hà Nội có thể vươn cao 56 mét (tương đương tòa nhà 18 tầng).

Read more…

LẤY VŨ KHÍ ĐỊCH ĐỂ ĐÁNH ĐỊCH

20:25 |
“Lấy vũ khí của địch để đánh địch” là phương châm hành động của bộ đội ta trong chiến đấu, đồng thời là biện pháp quan trọng để bảo đảm kỹ thuật góp phần cho chiến đấu thắng lợi. Việc này được tiến hành từ những trận đánh đầu tiên khi quân đội ta mới ra đời và tiếp tục được vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong 30 năm chiến tranh giải phóng. Đặc biệt là trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, cách đây tròn 40 năm về trước, để tập trung một khối lượng lớn vũ khí trang bị kỹ thuật (VKTBKT) cho chiến đấu.
Trước khi vào Chiến dịch Tây Nguyên, ta đã có công tác chuẩn bị chu đáo về hậu cần, kỹ thuật. Đoàn 559 đã sử dụng hơn 1000 xe vận tải cùng các lực lượng khác vận chuyển vật chất đạt 110% kế hoạch, bảo đảm đủ cho bộ đội Tây Nguyên hoạt động trong cả năm 1975. Các căn cứ hậu cần, kỹ thuật của ta cũng đã tiếp nhận 1.681 tấn vũ khí, đạn. Song, ngay trong những trận đánh mở màn chiến dịch ngày 10-3, Trung đoàn Đặc công 198 đã thực hiện tốt phương châm “Lấy vũ khí của địch để đánh địch”, nhanh chóng đánh chiếm kho Mai Hắc Đế, thu giữ 50 nhà kho đạn pháo (hơn 100.000 tấn), 200 súng các loại, kịp thời trang bị cho các đơn vị sử dụng, tăng cường hỏa lực cho các đơn vị trên chiến trường. Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi, ta đã thu hơn 10 nghìn tấn chiến lợi phẩm, trong đó có 3.855 tấn đạn, 150 tấn vật chất cùng hàng chục nghìn khẩu súng, pháo, xe ô tô, trang thiết bị quân sự...
Đến Chiến dịch Trị Thiên-Huế, Đà Nẵng, ta tiếp tục thu được 102.027 tấn chiến lợi phẩm, trong đó có hàng vạn tấn vũ khí đạn dược. Khối lượng vật chất, kỹ thuật to lớn này đã kịp thời bổ sung cho bộ đội ta bước vào Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. “Lịch sử kỹ thuật quân sự Việt Nam, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, có ghi: “Chiến dịch Tây Nguyên, Trị Thiên-Huế, Đà Nẵng đã tăng sức chiến đấu của ta lên gấp bội. Ta thu được một khối lượng lớn vũ khí đạn dược của địch. Quân chủ lực trong một thời gian ngắn đã tăng lên gấp bội, có sức cơ động khắp chiến trường”. Trong đội hình xe đưa các binh đoàn chủ lực cơ động thần tốc vào Chiến dịch Hồ Chí Minh, có nhiều phương tiện, vũ khí thu được của địch từ các chiến dịch trước đó. Trung tướng Nguyễn Ân, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 (Quân đoàn 2) cho biết: “Để bảo đảm cho sư đoàn cơ động chiến đấu, tiến đánh vào Dinh Độc Lập, sào huyệt cuối cùng của kẻ thù, Sư đoàn 304 đã sử dụng hơn 400 phương tiện các loại, trong đó có nhiều phương tiện thu được của địch trên chiến trường. Bản thân tôi là Sư đoàn trưởng khi chỉ huy bộ đội tiến vào giải phóng Sài Gòn cũng cơ động trên một chiếc xe chiến lợi phẩm...”.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã huy động tổng lực về lực lượng, VKTBKT để giành thắng lợi. Phương châm “lấy vũ khí của địch để đánh địch” tiếp tục được vận dụng sáng tạo, hiệu quả. Điển hình nhất là việc ta đã sử dụng máy bay thu được của địch để đánh địch đúng vào thời điểm then chốt của chiến dịch, khiến cho chúng càng thêm hoảng loạn, nhanh chóng sụp đổ. Ngày 28-4-1975, “Phi đội quyết thắng”, gồm 5 máy bay A37 thu được của địch, do phi công Nguyễn Thành Trung bay dẫn đường đã cất cánh từ Sân bay Thành Sơn (Phan Rang), cắt bom chính xác vào các mục tiêu trong Sân bay Tân Sơn Nhất, phá hủy 24 máy bay của địch. Thực hiện trận đánh này, một số phi công của ta đã phải nỗ lực huấn luyện chuyển loại gấp trong 6 ngày. Cán bộ kỹ thuật của Quân chủng Phòng không-Không quân đã chuẩn bị kỹ máy bay A37 từ Đà Nẵng, hóa nghiệm xăng dầu, đưa máy bay vào Phan Rang bí mật, an toàn.
Thực hiện phương châm “lấy vũ khí của địch để đánh địch”, thể hiện rõ trong các chỉ thị, quyết định của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về việc tiếp quản, thu hồi trang bị, vật tư ở chiến trường trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Ngày 27-3-1975, thực hiện chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật đã thành lập đoàn tiếp quản, thu hồi cơ sở vật chất, vũ khí, phương tiện chiến đấu ở chiến trường Trị-Thiên. Đến ngày 16-4-1975, Tổng cục Kỹ thuật tiếp tục thành lập Đoàn tiếp quản gồm đầy đủ các cơ quan trong ngành kỹ thuật. Ngày 20-4, Tổng cục Kỹ thuật tiếp tục ra quyết định thành lập Cơ quan tiếp quản về kỹ thuật quân sự ở Sài Gòn-Gia Định với lực lượng hùng hậu hơn 3.800 người, trong đó có 579 cán bộ. Đặc biệt, ngay sau Chiến thắng 30-4, ngày 4-5-1975, Quân ủy Trung ương đã ra Chỉ thị số 126/QUTW về công tác thu hồi, quản lý, bảo quản, sử dụng các cơ sở vật chất, kỹ thuật thu được của địch trong vùng giải phóng. Nhờ vậy, những VKTBKT thu được từ trong chiến tranh đã được Quân đội ta quản lý, sử dụng hiệu quả...
Ngày nay, trước yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội, việc giữ tốt, dùng bền, sử dụng an toàn, tiết kiệm, hiệu quả VKTBKT, trong đó có những VKTBKT thu được từ trong các cuộc chiến tranh giải phóng trước đây luôn là nhiệm vụ thường xuyên của cán bộ, chiến sĩ toàn quân. Đó vừa là tình cảm, vừa là trách nhiệm, thể hiện sự trân trọng về những thành quả đã được đổi bằng xương máu của các thế hệ đi trước. Phương châm “lấy vũ khí của địch để đánh địch” là bài học kinh nghiệm sâu sắc, tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng phù hợp trong công tác bảo đảm kỹ thuật trong giai đoạn mới...
ĐÀO DUY HÒA - HOÀNG NGỌC CẨN, Giảng viên Học viện Chính trị.

Read more…

CHIẾN DỊCH TRỊ - THIÊN 1975

21:23 |
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 thật sự là một trận quyết chiến chiến lược vĩ đại nhất của quân và dân ta trong thế kỷ 20; trong đó, Trị - Thiên là một trong những chiến dịch giành thắng lợi lớn và triệt để nhất, có ý nghĩa chiến lược và chính trị rất quan trọng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi trọn vẹn của Ðại thắng mùa Xuân 1975.

Chỉ sau 21 ngày đêm chiến đấu (từ ngày 5 đến 25-3-1975), quân và dân Trị - Thiên - Huế và Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang) đã nhanh chóng đập tan hệ thống căn cứ quân sự trọng yếu, tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn một bộ phận bộ máy quân sự lớn, gồm nhiều đơn vị sừng sỏ, một phần lực lượng tổng dự bị chiến lược cùng nhiều loại vũ khí, trang bị và phương tiện quân sự hiện đại của đội quân Việt Nam cộng hòa (1). Thắng lợi của Chiến dịch Trị - Thiên là đòn phủ đầu đích đáng giáng vào kế hoạch phòng thủ co cụm chiến lược mới của địch ở vùng đồng bằng duyên hải miền trung. Bởi, ngay từ khi nhận thấy Tây Nguyên thất thủ, đế quốc Mỹ và đội quân Việt Nam cộng hòa đã chủ trương lấy Trị - Thiên - Huế làm một trong những trung tâm phòng ngự cố thủ, án ngữ ở phía bắc để che chở và bảo vệ căn cứ hậu cần, kỹ thuật chiến lược khu vực miền Trung của chúng (trọng tâm là Huế và Ðà Nẵng).
Thực hiện mệnh lệnh tác chiến của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh: "Trị - Thiên - Huế phải tiến hành các chiến dịch tổng hợp cả quân sự và chính trị, bằng lực lượng cả chủ lực của Bộ, của địa phương Quân khu, phối hợp chặt chẽ giữa ba thứ quân, ba mũi giáp công. Trong chiến dịch tổng hợp đó phải nhằm: tiêu diệt và làm tan rã một phần quan trọng sinh lực địch, phải diệt gọn được từng tiểu đoàn, trung đoàn địch; tạo điều kiện đánh bại cơ bản kế hoạch bình định của địch ở đồng bằng, giành phần lớn nhân dân, giành quyền làm chủ; khi địch đã hoang mang dao động mạnh thì phải nhanh chóng chớp lấy thời cơ, tiến lên hành động mạnh bạo, giành thắng lợi lớn nhất. Phải có hai kế hoạch: kế hoạch "cơ bản" và kế hoạch "thời cơ"... "(2); các lực lượng vũ trang và nhân dân Trị - Thiên cùng Quân đoàn 2 (binh đoàn chủ lực cơ động của Bộ đứng chân trên địa bàn) khẩn trương xây dựng và triển khai kế hoạch chiến lược năm 1975.
Chủ động nắm bắt sự chuyển biến tình hình, Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 đã nhạy bén trước thời cơ lớn xuất hiện, nhanh chóng quán triệt và hạ quyết tâm tập trung lực lượng ba thứ quân, tranh thủ thời cơ thuận lợi năm 1975, đẩy mạnh tiến công tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của chúng ở Trị - Thiên. Khi quân địch thất thủ ở Buôn Ma Thuột, tiếp đến là đòn phản kích của Sư đoàn 23 bị đập tan, chúng vỡ trận và nhanh chóng rút khỏi Tây Nguyên, thời cơ giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế và các tỉnh đồng bằng duyên hải miền trung xuất hiện. Ngay lập tức Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 thực hiện kế hoạch chia cắt chiến lược, cô lập Huế.
Nắm chắc thời cơ, chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị của cấp trên, Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 chủ động, tích cực hành động táo bạo, linh hoạt và sáng tạo, quyết tâm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao. Theo đó, Quân đoàn 2 sử dụng Sư đoàn 325 nhanh chóng tiến công quân địch, khẩn trương phát triển ra chiếm giữ quốc lộ số 1, chặn cắt đường cơ động của chúng. Sư đoàn 324 chỉ để lại một bộ phận lực lượng thích hợp kìm giữ, thu hút, giam chân địch ở núi Bông, núi Nghệ, điểm cao 303, còn đại bộ phận lực lượng thần tốc cơ động xuống đánh địch ở vùng đồng bằng. Tận dụng thời cơ, hành động quyết đoán, táo bạo, bất ngờ nên các đơn vị của Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 đã thực hiện bao vây được quân địch cả trên bộ và ven biển, làm tiêu hao và đánh tan sư đoàn 1 bộ binh, lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến quân đội Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn tỉnh Thừa - Thiên, chiếm thành phố Huế hầu như nguyên vẹn.
Cũng cần phải nói thêm rằng, đòn tiến công của bộ đội chủ lực và địa phương không chỉ đóng vai trò quyết định trong việc tiêu diệt địch, mà còn tạo ra thời cơ và thực sự là "đòn xeo" thúc đẩy phong trào nổi dậy của quần chúng ở nông thôn đồng bằng và thành thị, phá bình định, thế kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ. Cụ thể, trong đợt đầu chiến dịch, bộ đội chủ lực và địa phương tác chiến nhỏ, đánh giao thông, căn cứ kho tàng... địch, nghi binh chiến dịch, lực lượng tại chỗ và nhân dân các địa phương chủ yếu đấu tranh phá lỏng thế kìm kẹp của địch, đưa phong trào quần chúng tiến lên, hoạt động dưới hình thức hợp pháp là chính. Khi chiến dịch chuyển sang tiến công theo "kế hoạch thời cơ" - các mũi tiến công của bộ đội chủ lực diễn ra mãnh liệt, các mục tiêu trọng yếu của địch bị tiêu diệt đã mở ra thời cơ thuận lợi cho phong trào nổi dậy của quần chúng đồng loạt diễn ra mạnh mẽ, đều khắp các địa phương. Lực lượng kìm kẹp của địch bị giải tán, chính quyền cơ sở bị xóa bỏ, chính quyền cách mạng ở ấp xã được thành lập.
Với thắng lợi Trị - Thiên - Huế mùa Xuân 1975, chúng ta không chỉ đập tan kế hoạch co cụm ở Trị - Thiên và kế hoạch bảo toàn lực lượng rút chạy về co cụm ở Ðà Nẵng của đội quân Việt Nam cộng hòa, mà quan trọng hơn lại tạo ra thời cơ chiến lược lớn cho quân và dân ta đẩy nhanh tốc độ tiến công vào phía nam, giải phóng Ðà Nẵng và một loạt hệ thống căn cứ, thành phố, thị xã khác của địch.
Thắng lợi to lớn của ta - thảm bại quá lớn của địch ở Trị - Thiên - Huế đã tạo ra phản ứng dây chuyền, giáng thêm một đòn chí mạng vào tinh thần, ý chí và sức chiến đấu của cán binh đội quân Sài Gòn, đẩy chúng lao sâu và nhanh hơn nữa đến bờ vực suy sụp về tư tưởng và tổ chức, uy hiếp trực tiếp đến tập đoàn phòng ngự của địch ở Quảng Nam - Ðà Nẵng nói riêng và phần đất còn lại ở miền nam nói chung. Ðến đây thế trận của địch vốn đã bị co hẹp, rối loạn, nay càng bị dồn nén, hỗn loạn hơn. Thắng lợi của Chiến dịch Trị - Thiên đã làm thay đổi hẳn tương quan lực lượng địch ta trên hướng tiến công chiến lược phía bắc, tạo ra thời cơ thuận lợi để quân và dân ta thần tốc tiến xuống phía nam, tiếp tục mở chiến dịch tiến công giải phóng Ðà Nẵng - Trung tâm liên hợp quân sự lớn của Mỹ và đội quân Việt Nam cộng hòa tại miền trung.
Kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng Trị - Thiên - Huế, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước (1975 - 2015) là dịp để chúng ta ôn lại một trang sử liệt oanh và hào hùng bậc nhất của dân tộc Việt Nam vào thế kỷ 20; đồng thời tiếp tục khẳng định sự thành công xuất sắc trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành chiến tranh của Ðảng ta, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh; một bước phát triển vượt bậc về nghệ thuật chiến dịch của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong bối cảnh thực tế đặt ra của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, trực tiếp nhất là nhiệm vụ bảo vệ an ninh chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của đất nước, những bài học lịch sử, những kinh nghiệm thực tiễn được đúc kết từ Chiến dịch Trị - Thiên mùa Xuân 1975 vẫn giữ nguyên giá trị để tiếp tục nghiên cứu, vận dụng một cách phù hợp và sáng tạo trên cả phương diện chiến lược cũng như trong ứng phó với những tình huống bất thường diễn ra tại những khu vực có tranh chấp với đối phương trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay.
HUY NGUYỄN (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)
Read more…

SỰ TÀN KHỐC CỦA CHIẾN TRANH

21:20 |
- REDS.VN

Quy mô và sự tàn khốc của cuộc chiến tranh mà người Mỹ gây ra trên đất nước Việt Nam là điều mà những thế hệ sinh trưởng trong hòa bình không bao giờ có thể hình dung một cách trọn vẹn.
Tuy vậy, thông qua những hình ảnh lịch sử được ghi lại, chúng ta sẽ cảm nhận được phần nào âm hưởng của một thời đại đau thương mà cũng rất đỗi huy hoàng của đất nước mình…
Dưới đây là 47 bức ảnh tiêu biểu về cuộc chiến tranh Việt Nam do các phóng viên phương Tây thực hiện, được tổng hợp và giới thiệu trên trang BOSTON.COM.
Trực thăng Mỹ nã đạn vào những bụi cây để ểm trợ cho bộ binh VNCH trong cuộc tấn công vào một căn cứ của quân Giải phóng tại một địa điểm nằm ở Tây Bắc Sài Gòn, cách Tây Ninh 18 dặm về phía Bắc, gần biên giới Campuchia vào tháng 3/1965. (Ảnh: AP / Horst Faas).
Một chiếc xe tăng M41 của quân đội VNCH tiến vào một vị trí có quân Giải phóng ẩn nấp ở Sài Gòn, tháng 05/1960. (Ảnh: Bộ quốc phòng Mỹ).

Một trực thăng CH-46 Sea Knight của thủy quân lục chến Mỹ bốc cháy và lao xuống sau khi trúng hỏa lực mặt đất của đôí phương trong một chiến dịch Hastings ở phía Nam của vĩ tuyến 17 vào ngày 15/7/1966. Chiếc trực thăng đã bị rơi và phát nổ trên một ngọn đồi, làm một phi công và 12 lính thủy quân lục chiến thiệt mạng. Ba phi công thoát chết bị bỏng nặng (Ảnh: AP / Horst Faas).
Một người lính thủy quân lục chiến trẻ chờ đợi các đồng đội trong một cuộc đổ quân ở bãi biển Đà Nẵng, ngày 3/8/1965. (Ảnh: US Marine Corps).
Bom napalm của Mỹ phát nổ và tạo ra quầng lửa lớn ngay gần các binh sĩ Mỹ đang tuần tra tại miền Nam Việt Nam năm 1966 (Ảnh: AP).
Một người lính VNCH phải bịt mặt để tránh mùi tử khí khi vượt qua một con đường đầy xác lính Mỹ và Việt Nam sau cuộc đụng độ với quân du kích ở đồn điền cao su Michelin, khoảng 45 dặm về phía Đông Bắc Sài Gòn, ngày 27/11/1965. Hơn 100 thi thể đã được thu hồi sau trận đánh. (Ảnh: AP / Horst Faas).
Ronald A. Payne, một chiến binh thuộc Sư Đoàn 25 Bộ Binh của Mỹ đang kiểm tra một lối vào đường hầm bằng chiếc đèn pin cá nhân, trước khi chui xuống đó để tìm những người Việt Cộng hoặc các thiết bị của họ, tại địa điểm cách Sài Gòn 25 dặm về phía Bắc. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Tàu sân bay USS Forrestal nhìn từ trên không. Khảng một tháng trước đó, vào tháng 7/1967, một vụ nổ đã làm con tàu bị hư hại, cùng 132 binh sĩ thiệt mạng và 62 người bị thương trong khi thi hành công vụ tại vùng biển ngoài khơi Việt Nam. (Ảnh: U.S Navy).
Một chiếc trực thăng UH-1D đang xịt thuốc làm rụng lá trên một khu rừng rậm ở đồng bằng sông Cửu Long. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Ni cô Thích Nữ Thanh Quang tự thiêu trong một nỗ lực phản đối sự đàn áp Phật giáo tại chùa Diệu Đế ở Huế, 29/5/1966. (Ảnh: AP).
Lính dù của Tiểu Đoàn 2, Lữ đoàn dù 173 giữ các khẩu súng tự động trên vai cho khỏi ướt khi vượt qua một con sông trong cơn mưa, trong cuộc tìm kiếm vị trí của Việt Cộng tại khu vực rừng Bến Cát vào ngày 25/9/1965. (Ảnh: AP/Henri Huet).
Lực lượng an ninh VNCH áp giải chiến sĩ Việt Cộng Nguyễn Văn Lém (còn được gọi là Bảy Lốp) trên một đường phố Sài Gòn vào ngày 1/2/1968, khoảng thời gian đầu của cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân. (Ảnh: AP/Eddie Adams).
Anh đã bị giám đốc cảnh sát quốc gia, tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn thẳng vào đầu và hi sinh ngay sau đó. Tấm ảnh này đã châm ngòi cho một làn sóng phẫn nộ của người dân Mỹ. (Ảnh: AP/Eddie Adams).
Tướng Nguyễn Ngọc Loan cất khẩu súng của mình sau khi thực hiện vụ giết người. (Ảnh: AP/Eddie Adams).
Người biểu tình tại Berkeley, California tuần hành phản đối cuộc chiến tại Việt Nam vào tháng 12/1965. (Ảnh: AP).
Người biểu tình phản đối chiến tranh tập hợp bên hồ Phản Chiếu tại Washington DC ngày 21/10/1967. (Ảnh: AP).
Một căn cứ của quân Giải phóng chìm trong lửa gần Mỹ Tho vào ngày 5/4/1968. Phía trước tấm ảnh là binh nhất Raymond Rumpa, thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh, với khẩu súng vác vai không giật cỡ nòng 90mm. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Một chiếc chiến đấu cơ F-100D Super Sabre bắn ra một loạt tên lửa đường kính 2,75 inch vào vị trí đối phương, ngày 1/1/ 1967. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Một lính bộ binh Mỹ ngồi chờ đợi mệnh lệnh của một đợt tấn công với khuôn mặt được vẽ ngụy trang, tháng 8/1971. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Phụ nữ và trẻ em cúi mình trong một con kênh bùn để tránh đạn trong một cuộc giao tranh tại một vị trí cách phía Tây Sài Gòn khoảng 20 dặm, ngày 1/1/1966. (Ảnh: AP/Horst Faas).
Tử thi của một lính dù Mỹ bị chết trong chiến dịch ở khu rừng già gần biên giới Campuchia (Vùng C) được chuyển đi bằng máy bay trực thăng, năm 1966. (Ảnh: AP/Henri Huet).
Thuỷ quân lục chiến Mỹ chi lên từ các hố cá nhân của họ vào lúc bình minh sau đêm thứ 3 của trận chiến chống lại các cuộc tấn công liên tục từ phía Sư đoàn 324B của quân Giải phóng, ngày 21/9/1966. (Ảnh: AP/Henri Huet).
Các thành viên của Sư đoàn Không vận 101 chụp ảnh trong chương trình biểu diễn dịp Giáng sinh tại trại Eagle, ngày 23/12/1970. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Hoạt náo viên Sammy Davis đang khích lệ tinh thần cho các thành viên của các Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 tại một điểm đóng quân bí mật, tháng 2/1972. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Mỹ).
Một chiếc trực thăng tiếp vận tìm điểm hạ cánh trên đỉnh một ngọn đồi cháy rụi vì các cuộc giao chiến ở phía Tây của tỉnh Đắk Tô, khu vực Tây Nguyên, ngày 3/6/1968. (Ảnh: AP).
Một lính thủy quân lục chiến giúp đồng đội bị thương của mình rút lui dưới làn đạn của quân Giải phóng trong trận chiến ngày 15/ 5 1967 tại khu vực phía Nam khu phi quân sự ở miền Nam Việt Nam. (Ảnh: AP/John Schneider).
Những người phản chiến biểu tình bằng cách nằm tại khu vực Sheep Meadow, công viên trung tâm New York ngày 14/11/1969. Hàng trăm quả bóng được thả lên bầu trời, màu đen tượng trưng cho những người lính Mỹ đã thiệt mạng ở Việt Nam dưới thời Nixon và màu trắng là những người sẽ chết nếu cuộc chiến tiếp tục. (Ảnh: AP/J. Spencer Jones).
Tại khuôn viên Đại học Kent State ngày 4/5/1970, các sinh viên sơ cứu cho John Cleary sau khi anh bị lực lượng Cảnh sát Quốc gia Ohio bắn trong cuộc biểu tình chống lại việc mở rộng cuộc chiến tranh Việt Nam vào Campuchia. Anh đã sống sót. Bốn sinh viên khác đã bị giết chết và chín người bị thương trong cuộc biểu tình. (Ảnh: KSU/Doug Moore/REUTERS).
Bom napalm nổ giữa những ngôi nhà phía trước một đền thờ của đạo Cao Đài ở vùng ngoại vi của Trảng Bàng, ngày 8/6/1972. Phía trước là những người lính VNCH cùng nhân viên của nhiều hãng tin tức quốc tế khác nhau và tin tức quay phim và từ các tổ chức tin tức quốc tế khác nhau đến xem hiện trường. Có thể nhìn thấy tòa tháp của ngôi đền ở trung tâm của vụ nổ. (Ảnh: AP/Nick Ut).
Read more…